Tông đồ giáo dân phương diện giáo luật và mục vụ (2)
PHƯƠNG DIỆN GIÁO LUẬT VÀ MỤC VỤ
Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ
(tiếp theo)
II. HÌNH THỨC TÔNG ĐỒ TẬP THỂ: HỘI ĐOÀN
1. Sự cần thiết của tông đồ tập thể
Giáo luật điều 225§1 nói rõ người giáo dân có thể tham gia hoạt động tông đồ với tư cách cá nhân hay tập thể. Tuy nhiên hoạt động tông đồ có tổ chức chặt chẽ sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn. Cách thế hoạt động tập thể thông qua một tổ chức, hội đoàn cần được phát động và khích lệ nhiều hơn[1
Ngày nay người ta hay chú trọng đến cá nhân, đề cao tự do cá nhân và cá nhân chủ nghĩa, chú ý sự dấn thân, những sáng kiến cá nhân hơn là của cộng đoàn. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động tông đồ tập thể vẫn có giá trị lớn lao nếu không muốn nói là hàng đầu vì những yếu tố xã hội và quốc tế của nó.
Mặt khác, hoạt động tông đồ tập thể thường sử dụng những phương tiện kỹ thuật truyền thông hiện đại vừa mau lẹ vừa có sức tác động rất lớn tới cá nhân, xã hội và thế giới. Sau nữa, khi liên kết với nhau trong việc tông đồ, đức tin và đời sống của người Kitô hữu được tăng triển và nâng đỡ rất nhiều trước những thách đố của thời đại hay trước những kẻ cấu kết với nhau làm điều xấu. Những lời sau đây của công đồng vẫn còn nguyên tính thời sự: «Trong những hoàn cảnh hiện tại, nơi nào có giáo dân hoạt động thì hoạt động tông đồ nhất thiết phải được củng cố dưới hình thức tập thể và có tổ chức. Vì chỉ có việc liên kết chặt chẽ các nỗ lực mới mong đạt được đầy đủ mọi mục tiêu của hoạt động tông đồ ngày nay và bảo vệ hữu hiệu những kết quả của việc tông đồ đó. Do đó điều quan trọng đặc biệt là làm sao cho hoạt động tông đồ tác động vào não trạng quần chúng và những hoàn cảnh xã hội của những người mà hoạt động tông đồ nhằm tới. Nếu không, họ thường sẽ không đủ sức chống lại áp lực của dư luận quần chúng hay của các định chế»[2].
Hoạt động tông đồ tập thể có tổ chức thường được thực hiện qua các hội đoàn. «Những hội đoàn được thành lập nhằm hoạt động tông đồ tập thể, nâng đỡ và huấn luyện các hội viên làm tông đồ, phối hợp và hướng dẫn hoạt động tông đồ của họ, để có thể hy vọng nơi họ những kết quả phong phú hơn là nếu từng người hoạt động riêng rẽ»[3].
2. Hội đoàn – Hiệp hội
«Có nhiều hội đoàn tông đồ khác nhau […] Trong số những hội đoàn đó, cần phải đặc biệt chú trọng đến những hội đoàn cổ võ và đề cao sự phối hợp chặt chẽ giữa đời sống thực tế của hội viên với đức tin của họ. Các hội đoàn tự nó không phải là cứu cánh, nhưng phải nhằm giúp Giáo Hội chu toàn sứ mệnh đối với trần gian. Các hội đoàn chỉ có giá trị tông đồ nhờ ở chỗ phù hợp với các mục tiêu của Giáo Hội, ở từng hội viên hay cả hội đoàn có tinh thần Phúc Âm và làm chứng cho Chúa Kitô»[4].
Một hình thức hoạt động tập thể mà sắc lệnh Tông đồ giáo dân đã đặc biệt lưu ý đó là hội đoàn Công giáo Tiến hành, tức là sự cộng tác của giáo dân vào việc tông đồ của hàng giáo phẩm[5]. Chúng ta sẽ nói thêm về các hội đoàn nầy ở phần sau.
Giáo luật đã lấy lại những ý tưởng chính yếu của công đồng Vaticanô II về hoạt động tông đồ tập thể có tổ chức. Giáo luật sử dụng hạn từ hiệp hội (consociatio) để chỉ sự tham gia trong các hoạt động của Giáo Hội của các Kitô hữu có tính cách tập thể, nói chung là hoạt động tông đồ. Giáo luật dành khá nhiều khoản luật đề cập đến các hiệp hội kitô hữu[6].
Hiệp hội không phải là các Hội Dòng thánh hiến hay tu đoàn tông đồ, nhưng là một tổ chức trong đó, các Kitô hữu, hoặc giáo sĩ hoặc giáo dân, hoặc cả giáo sĩ lẫn giáo dân cùng chung sức hoạt động nhằm theo những mục đích phát triển một đời sống hoàn thiện hơn, hoặc cổ vũ việc phụng tự công hay học thuyết kitô giáo, hoặc thực hiện các việc tông đồ khác, như truyền bá Phúc Âm, thi hành các việc đạo đức hoặc bác ái, và đem tinh thần kitô giáo vào lãnh vực trần thế; đặc biệt các hiệp hội có mục đích làm cho lãnh vực trần thế được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, và nhờ đó phát triển sự liên kết khắng khít hơn giữa đức tin và đời sống[7].
Giáo dân có quyền thành lập, tham gia và điều hành những hiệp hội của mình theo những mục đích nói trên[8]. Tuy nhiên hoạt động của hiệp hội phải ở dưới ở dưới sự giám sát và chăm nom của giáo quyền[9].
Trong hoạt động phải liệu sao để hiệp hội giáo dân «cộng tác với các hiệp hội kitô hũu khác, ở đâu thấy hữu ích, hầu sẵn lòng giúp đỡ các công cuộc kitô giáo khác, nhất là các công cuộc hiện có trong cùng địa hạt»[10].
Đặc biệt, phải «lo cho các hội viên được đào tạo đúng mức để làm việc tông đồ riêng của giáo dân»[11].
Việc điều hành, sinh hoạt, các thẩm quyền, quản trị tài sản, tính cách pháp nhân… của hiệp hội phải theo luật chung của Giáo Hội và quy chế riêng của mỗi hiệp hội[12].
Trong lịch sử và theo thực tế hiện nay, danh từ “hội đoàn” có thể được hiểu theo nghĩa hẹp tức là để chỉ những hiệp hội nói trên, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng, tức là để chỉ một nhóm các tín hữu được qui tụ lại có tổ chức và sinh hoạt theo một nội qui nhất định nhưng chưa đạt tới tư cách pháp nhân như một hiệp hội theo giáo luật hiện hành qui định[13]. Trong bài nầy, tùy văn mạch, chúng ta sử dụng từ hội đoàn với cả hai nghĩa vừa nói.
3. Giáo xứ và hội đoàn
a. Giáo xứ: môi trường tông đồ tập thể kiểu mẫu
Như chúng ta biết, «giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định được thiết lập cách bền vững trong Giáo Hội địa phương, mà trách nhiệm mục vụ được uỷ thác cho cha sở như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy, dưới quyền Giám Mục giáo phận»[14].
Trong những môi trường tông đồ giáo dân khác nhau, công đồng đã nhấn mạnh rằng: «Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi quy tụ đủ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đưa họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội. Giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình để hoạt động trong giáo xứ. Họ cũng nên có thói quen trình bày với cộng đoàn giáo hội những vấn đề riêng của mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan tới phần rỗi mọi người, để cùng nhau góp ý kiến nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tuỳ sức mà cố gắng đóng góp vào mọi công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình giáo hội địa phương mình»[15].
Trong bối cảnh xã hội đầy biến động hôm nay, có nhiều người bị mất phẩm giá hay bị lạc phương hướng, nhưng trong tâm hồn họ vẫn khát vọng được sống với tha nhân trong tình huynh đệ và tình người. «Ước vọng này, giáo xứ có thể làm thỏa mãn cho họ, nếu các tín hữu giáo dân hăng hái tham gia để họ đạo trung thành ơn gọi và sứ mệnh nguyên thủy của mình, đó là trở thành “nơi ” hiệp thông của những kẻ có lòng tin và đồng thời trở nên “dấu chỉ” và là “phương thể” của ơn gọi mọi người sống hiệp thông. Tóm lại, giáo xứ là căn nhà mở rộng đón tiêp mọi người và phục vụ mọi người, hay như Đức Gioan XXIII thường nói là “giếng làng” để mọi người đến giải khát»[16]. Như vậy giáo xứ là môi trường rất thích hợp và thuận lợi cho việc tông đồ giáo dân.
b. Cha sở và việc tổ chức hội đoàn trong giáo xứ
Trong việc điều hành giáo xứ, một mình cha sở không thể nào chu toàn mọi bổn phận của mình một cách chu đáo được nếu không có sự cộng tác của nhiều thành phần dân Chúa, đặc biệt là giáo dân. Liên quan đến hội đoàn, giáo luật điều 529§2 buộc «Cha sở phải nhận biết và cổ vũ phần đóng góp riêng của giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội, bằng cách cổ động các hội đoàn của họ nhằm các mục tiêu tôn giáo… Phải làm sao để các tín hữu biết quan tâm đến sự hiệp thông trong giáo xứ, để họ cảm thấy mình vừa là thành phần của giáo phận, vừa là thành phần của Giáo Hội phổ quát, và để họ biết tham gia và nâng đỡ những công cuộc nhằm mục đích cổ vũ sự hiệp thông đó».
Như vậy là cha sở phải ra sức cổ võ và bảo vệ những sáng kiến hợp pháp của giáo dân và có sự điều hành thích đáng[17], không bỏ mặc, “đánh trống bỏ dùi”, nhưng cũng không nên can thiệp để quyết định trong tất cả mọi sự, dù nhỏ nhặt. Hay nói khác hơn, cha sở không điều hành các hội đoàn theo kiểu của kẻ cả, cha chú và thường đưa ra quyết định độc đoán, duy ý chí. Còn về phía giáo dân, cũng không thể tùy tiện làm việc theo ý riêng, dù là ý của tập thể mà bỏ qua hướng dẫn của cha sở. Với tinh thần tôn trọng nghĩa vụ và quyền cũng như trong sự phối hợp và tương trợ, giáo quyền và giáo dân cùng hoạt động như những anh em trong Đức Kitô, trong một gia đình của Thiên Chúa. Công đồng nhắc nhở rằng «Các Giám mục, các cha xứ, các linh mục dòng triều phải nhớ rằng quyền và bổn phận làm tông đồ là việc chung cho tất cả mọi tín hữu, không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân, và trong việc xây dựng Giáo Hội, giáo dân cũng có phần riêng của họ. Vì thế các ngài phải cùng với giáo dân làm việc trong Giáo Hội và cho Giáo Hội với tình huynh đệ, cũng như phải đặc biệt để tâm lo cho giáo dân trong khi họ làm việc tông đồ»[18].
Như đã nói, việc tham gia hoạt động tông đồ của giáo dân không chỉ là một nghĩa vụ mà còn là một quyền của họ nữa cho nên cần phải được mọi người tôn trọng và nhìn nhận. Tuy nhiên giáo luật không nói cụ thể giáo dân sẽ làm những gì để thực hiện quyền nầy. Đúng hơn vì đó là trách nhiệm những người có thẩm quyền vừa nhìn nhận, tôn trọng quyền nầy, đồng thời phải cổ võ kể cả việc tổ chức các hội đoàn để giáo dân tham gia.
Nói về vai trò của cha sở đối với hội đoàn, nhận xét sau đây của một nhà nghiên cứu ngoại giáo thật chính xác: «nói chung các hội đoàn đều tổ chức chặt chẽ; có hội đoàn là chi nhánh quốc tế; có hội đoàn mang tính chất liên địa phận. Song, nói chung chỗ dựa và địa bàn hoạt động căn bản của hội đoàn là xứ, họ đạo. Linh mục xứ là người tập hợp, duy trì, cổ xúy cho hội đoàn. Vai trò, uy tín, trình độ của linh mục có ảnh hưởng rất lớn đến hội đoàn»[19]. Bởi vậy, có thể nói hội đoàn trong giáo xứ có tồn tại và thăng tiến hay không tùy thuộc rất lớn vào cha sở của giáo xứ.
III. HỘI ĐOÀN XƯA VÀ NAY TRONG GIÁO PHẬN
1. Nhìn về quá khứ
Hình thức tổ chức hội đoàn ở Việt Nam có từ lâu và dưới nhiều hình thức khác nhau theo dòng lịch sử. Có những hội đoàn chỉ để phục vụ nghi lễ như Hội Hát, Hội Kèn, Hội Con hoa, Hội Trống hay Hội Trắc, … Rồi có những Hội với những mục đích tông đồ như Hội Cầu nguyện còn gọi là Hội Tông đồ cầu nguyện hay Cầu nguyện truyền giáo, Hội Bà Thánh Anna, Hội Bà Thánh Têrêsa, Hội Ông Thánh Giuse, Đoàn Thanh Niên Công giáo… Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1954 có thể nói nở rộ các Hội đoàn công giáo, mà đặc biệt là các hội đoàn Công giáo Tiến hành tại miền nam Việt Nam từ 1957 đến 1975[20].
Đối với giáo phận chúng ta, trước đây trong mỗi Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, đều có mục tường trình hoạt động truyền giáo và các hội đoàn Công giáo Tiến hành[21]. Theo đó, lúc khởi đầu trong giáo phận (1958) chỉ có 3 hội đoàn Công giáo Tiến hành là Hiệp Hội Thánh Mẫu, Legio Mariae và bác ái Vinh Sơn được thành lập tại nhiều giáo xứ[22]. Về sau có nhiều hội đoàn khác được thành lập nữa như: Hùng Tâm Dũng Chí, Thanh Sinh Công, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hiệp Hội Giáo Chức Công Giáo, Hội Cựu Chủng Sinh-Tu Sĩ[23]. Nhưng về sau do thời cuộc mà sinh hoạt của các hội đoàn giảm sút và chỉ sinh hoạt mạnh ở địa bàn thành phố như Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Tuy Hòa.
Như chúng ta biết, các hội đoàn Công giáo Tiến hành ở Việt Nam rất nhiều, mà phần lớn là ở miền nam trước năm 1975[24], tuy nhiên tại giáo phận chúng ta vào năm 1971 thì chỉ có một số hội đoàn sau đây đã được chính thức thành lập và có linh mục tuyên úy cấp giáo phận đặc trách: Legio Mariae (cha Giuse Phan Văn Hoa); Pax Romana (Cha Phêrô Huỳnh Kim lăng); Thanh Sinh Công (cha Giuse Phạm An Ninh) Hiệp Hội Thánh Mẫu (cha Antôn Hoàng Tiến Nam), Bác ái vinh Sơn (cha Giuse Phan Văn Hoa). Một số hội đoàn khác được phép thành lập ở một số giáo xứ nhưng không có tuyên úy địa phận, chẳng hạn Hùng Tâm Dũng Chí, liên Minh Thánh Tâm, Thiếu Nhi Thánh Thể[25]. Theo một số Bản Thông tin địa phận Qui Nhơntrước 1975 ghi lại thì sinh hoạt các hội đoàn trong giáo phận rất sinh động và hăng say. Giáo dân tích cực tham gia hội đoàn và «không gì cảm động bằng thấy nhiều giáo hữu từng các họ nhánh xa từng hai ba chục cây số, nghe thành lập công giáo tiến hành đã cố về để tham dự»[26].
Đại hội Hội đồng Mục vụ giáo phận từ ngày 31.8 đến 1.9.1971 đã ra nghị quyết là «địa sở nào cũng phải tổ chức ít nhất là một hội đoàn CGTH, lựa chọn trong những hội đoàn đã được chính thức thừa nhận trong địa phận»[27]. Tuy nhiên chúng ta thấy, kể từ năm 1972 thì chiến cuộc lan rộng và khốc liệt hơn, giáo dân chúng ta di cư vào miền nam, nhiều giáo xứ còn ít giáo dân ở lại nên sinh hoạt các hội đoàn không còn như trước nữa hoặc chỉ tập trung tại những thành phố mà thôi[28].
Kể từ sau năm 1975, do hoàn cảnh chính trị – xã hội lúc bấy giờ mà đa số các hội đoàn công giáo không còn hoạt động. Đến năm 1980 thì ở miền nam một số hội đoàn bắt đầu hoạt động trở lại nhưng sinh hoạt theo giới là chính: giới gia trưởng, giới hiền mẫu, các bà mẹ công giáo, thiếu nhi, thanh thiếu niên. Có thể nói trước hoàn cảnh khó khăn thì đó là một sự nổ lực linh hoạt trong việc tổ chức sinh hoạt hội đoàn của các địa phận công giáo ở miền nam[29]. Những tổ chức và sinh hoạt các hội đoàn trong giáo phận chúng ta cũng theo tình hình chung đó.
2. Vài nét hiện tại
Những năm gần đây Giáo Hội tại Việt Nam ngày càng có nhiều hội đoàn sinh hoạt trở lại và cũng có những hội đoàn mới xuất hiện. Theo niên giám HĐGM Việt Nam, có một số hội đoàn sau đây đã được ghi nhận[30]:
1) Thiếu Nhi Thánh Thể
2) Hùng Tâm Dũng Chí
3) Thanh Sinh Công
4) Hướng Đạo Công Giáo
5) Giới Trẻ Con Đức Mẹ
6) Hiệp Hội Thánh Mẫu (Hiệp Sống)
7) Legio Mariae (Đạo Binh Đức Mẹ)
8) Các Bà Mẹ Công giáo
9) Liên Minh Thánh Tâm
10) Huynh Đoàn Đa Minh (Dòng Ba Đa Minh)
11) Phan Sinh Tại Thế (Dòng Ba Phan Sinh)
12) Dòng Ba Cát Minh
13) Hiệp hội Giáo Dân Bác Ái
14) Caritas Việt Nam
15) Khôi Bình Việt Nam
16) Gia Đình Cùng Theo Chúa
17) Gia Đình Chúa
Trong hoàn cảnh ngày nay, có thể nói rằng nhiều cấp chính quyền đã hiểu rõ hơn hoạt động tôn giáo của các hội đoàn nên đã cho phép một số tiếp tục sinh hoạt. Nhờ đó nhiều hội đoàn tại các giáo xứ được tái lập hay thành lập mới. Có thể nói «thập kỷ 90 của thế kỷ XX là thập kỷ “bùng nổ” hội đoàn»[31] tại Việt Nam.
Tuy nhiên nhiều người đã nhận ra rằng trong khi mức sống vật chất tăng cao, thì đạo đức tinh thần của nhiều người đang có nguy cơ bị sút giảm do tinh thần hưởng thụ, do tiến trình toàn cầu hoá về kinh tế và về cả văn hoá… Tình trạng sa sút này biểu lộ qua các tệ nạn xã hội như nghiện ngập, trộm cắp, mãi dâm, tội phạm hình sự, các án ly hôn, số người phá thai mỗi năm một tăng cao… Bởi vậy sự góp phần của các đoàn thể công giáo quả thật là một nhu cầu cần thiết để giúp cho xã hội ổn định và phát huy những nội lực quý giá của từng người[32].
Giáo phận chúng ta cũng không nằm ngoài hoàn cảnh chung đó. Nhiều cha sở đã lo lắng trước hiện tượng ngày càng có người nhiều người bỏ lễ ngày Chúa Nhật cách dễ dàng, thánh lễ hàng ngày hầu hết chỉ có số ít người già tham dự, trẻ em bỏ học giáo lý, sinh hoạt giới trẻ thanh niên thiếu nữ của giáo xứ không còn sức hút. Nhiều cha sở muốn thành lập những hội đoàn để tạo sức sống cho giáo xứ nhưng rất e ngại, lập ra thì dễ nhưng duy trì trong hoàn cảnh hôm nay lại không dễ. Hơn nữa một số cha sở muốn thành lập một số hội đoàn (ví dụ Hùng Tâm Dũng Chí, Khôi Bình) cách bài bản nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu và sẽ phải làm gì. Nhiều khó khăn chồng chất vừa do hoàn cảnh xã hội tạo ra, vừa do không có nhân sự phù hợp, không đủ cơ sở và phương tiện vật chất để duy trì.
So với nhiều giáo phận khác và so con số các hội đoàn nêu trên thì sự hiện diện của các hội đoàn trong giáo phận chúng ta chưa nhiều. Ngoài Legio Mariae được thành lập, tổ chức xuyên suốt và rộng rãi, thì việc thành lập các hội đoàn khác ở giáo xứ còn ít, rời rạc và mức độ sinh hoạt cìn hạn chế tùy thuộc vào hoàn cảnh từng giáo xứ. Như đã nói trên, hiện nay hầu hết các giáo xứ trong giáo phận hiện đều có những tổ chức sinh hoạt theo giới là chính, chẳng hạn như giới gia trưởng, hiền mẫu, các bà mẹ công giáo, thanh niên-thiếu nữ, thiếu nhi, học sinh-sinh viên, ca đoàn, nhạc đoàn, giáo lý viên, Caritas, Hội Trợ Táng … Bên cạnh đó cũng có các hội đoàn hay tổ chức khác như Gia Đình Cùng Theo Chúa (CTC), Thiếu Nhi Thánh Thể, … nhưng không đáng kể.
Gần đây Đấng Bản Quyền giáo phận ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc làm sao cho nhiều người giáo dân tham gia vào công việc chung của giáo xứ, giáo phận. Làm sao để có thể qui tụ người giáo dân sinh hoạt trong các hội đoàn; làm sao giúp họ ý thức về tư cách là Kitô hữu của mình với những nghĩa vụ và quyền nhất định, nhờ ơn Chúa và sự cố gắng của bản thân, họ sẽ sống để trở thành men, thành muối, góp phần vào sự phát triển của Giáo Hội và xã hội.
Trong đường hướng đó, năm 2011 Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn đã ban hành thử nghiệm bản Quy chế Hội đồng Giáo xứ giáo phận Qui Nhơn (ngày 29.6.2011) do Ban giáo dân biên soạn và đệ trình. Rồi mới đây Đức Cha giáo phận Matthêô cũng ra quyết định thành lập và ban hành Quy chế của Hội đồng Linh mục và của Hội đồng Mục vụ Giáo phận Qui Nhơn vào ngày 18.2.2013. Trong Năm Đức Tin 2013, Đức Cha Matthêô đã liên tiếp có các lá thư mục vụ cho từng giới, cho di dân… với những lời huấn dụ và hướng dẫn rất thiết thực[33]. Có thể nói đó là những bước khởi đầu và cơ sở pháp lý để canh tân đời sống giáo phận, thúc đẩy việc tông đồ giáo dân, cách riêng về hội đoàn. Cũng vì lý do đó, theo định hướng của Đức Cha giáo phận, chúng ta mới có cuộc thường huấn linh mục năm nay với chủ đề: Tông đồ giáo dân- Hội đoàn.
(còn tiếp)
Về không chuyên biệt: Legio Mariae, Gia Đình Phạt Tạ, Dòng Ba Đa Minh (Huynh đoàn Đa Minh), Dòng Ba Phan Sinh, Dòng Ba Cát Minh, Cộng đoàn Bác Ái. Ngoài ra, CGTH còn bao gồm nhiều tổ chức chuyên biệt như: Caritas Việt Nam cho các việc bác ái xã hội, Trung tâm ATAS (Âm thanh và Ánh sáng) cho hoạt động truyền thanh, phim ảnh, Uỷ ban Giáo dục cho các hoạt động giáo dục trong các trường tư thục Công giáo, Uỷ ban Báo chí Xuất bản cho các hoạt động truyền thông xã hội… Xem hỘi đỒng Giám mỤc viỆt Nam, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, niên giám 2004, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2004, tr. 424.
Nguồn tin: Gpquinhon.org